HUYỆN BÌNH KHÊ (Kỳ 2)
ĐƠN VỊ HÀNH CHÁNH MỞ ĐƯỜNG CHO NGƯỜI VIỆT ĐỊNH CƯ TRÊN CAO NGUYÊN AN KHÊ
II. THÀNH LẬP HUYỆN BÌNH KHÊ
Để hình thành nên huyện Bình Khê ở phía Tây huyện Tuy Viễn của Bình Định, triều Nguyễn phải lần đi từng bước.
1) Nha Doanh điền An Khê
Nha Doanh điền An Khê được thành lập vào niên hiệu Tự Đức thứ 23 (năm 1870) theo ghi chép của Đại Nam Thực Lục:
+ “Tháng 7 năm 1870 bắt đầu đặt nha Doanh điền ở An Khê. Khi trước Biện lý bộ Hộ là Trần Hy Tăng tâu nói: Một dải An Khê (thuộc huyện Tuy Viễn) ở thượng du tỉnh Bình Định, tiếp giáp sơn Man, đất phần nhiều bỏ không, xin mở làm đồn điền, để khai hết nguồn lợi ở đất và để giữ nơi xung yếu”…
Bấy giờ tỉnh thần Bình Định liệu tính:
1._ Xin đặt chánh, phó kinh lý mỗi chức 1 người, cho người Thổ (bản địa) trước lĩnh chức ấy
2._ Xin lập 1 cơ Hương binh, lĩnh tiền công để khai khẩn, 3 năm thành hiệu thì liệu thưởng
3._ Xin bất cứ người hạt nào, tự mộ được người đến đấy khai khẩn, đinh, điền được bao nhiêu, đều được thưởng phỏng theo lệ thưởng ở đồn điền ven biên giới
4._ Xin tùy địa điểm lập làm 8 ấp. (Tân Trạch, Tân Cư, Tân Tụ, Tân Khai, Tân Lai, Tân Dư, Tân Lập, Tân Tạo).
+ Vua chuẩn y cho thi hành. Rồi cho Quyền hàm ngũ phẩm là Tú tài Đặng Duy Hanh đổi hàm Thị giảng, lĩnh An Khê Doanh điền sự vụ, viên Kinh lý tạm đợi tính sau”. (tr 946 Thực Lục tập VII)
Biện lý bộ Hộ Trần Hy Tăng nguyên là Trần Bích San người làng Vị Xuyên tỉnh Nam Định (tên mới: tỉnh Ninh Bình), bạn học với Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Trần Bích San trải 3 kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình đều đỗ đầu như Nguyễn Khuyến, mà đỗ liền 3 kỳ liên tục nên được vua Tự Đức ban biển vinh quy “Liên Trúng Tam Nguyên”, lại ban cho tên là Hy Tăng, với hy vọng mong muốn Trần Bích San được như danh sĩ Vương Tăng đời nhà Tống của Trung Hoa. Để phân biệt với Tam nguyên Yên Đổ, người đời gọi ông là Tam nguyên Vị Xuyên. Ông từng đảm nhận chức Tri phủ Phủ An Nhơn của Bình Định, nên khi về triều ông rắp tâm vận động đồng liêu lập Nha Doanh điền khẩn đất trên cao nguyên An Khê.
Còn Đặng Duy Hanh nguyên là Tú tài, vì quyên 8000 quan tiền để khẩn đất nên được lĩnh chức Doanh điền sứ, năm 1873 vì sai trái khi thi hành nhiệm vụ phải phạt tội lưu theo ghi chép của Quốc sử quán triều Nguyễn:
+ Bọn phạm tội lưu (lưu đày) là Đặng Duy Hanh, phạm tội đồ (khổ sai) là Nguyễn Chân ở Bình Định (Hanh nguyên là Tú tài quyên 8.000 quan tiền, được thưởng hàm Thị giảng lĩnh chức Doanh điền ở An Khê; Chân nguyên là Tú tài hàm Đãi chiếu theo làm việc ở nha Doanh điền, năm thứ 25 [năm 1872] vì lĩnh thừa tiền gạo, thay đổi đem cấp phát, phải tội, Hanh là thủ phạm xử tội 100 trượng, lưu 2.000 dặm, Chân là tòng phạm xử tội 100 trượng, đồ 3 năm. (tr 1067 Thực Lục tập VII)
Nha Doanh điền An Khê thực thi công việc không như mong muốn, triều Nguyễn phải chỉnh đốn sửa sang lại thành nha Kinh lý.
2) Nha Kinh lý An Khê
Tháng 5 năm 1877 triều đình đặt Nha Kinh lý An Khê, lấy Bố chánh tỉnh Bình Định Phan Văn Điển người Quảng Ngãi sung chức chánh Kinh lý, phó là Đỗ Văn Thôn người Bình Định nguyên là Phó quản cơ của dinh Vũ lâm. Lúc này Triều đình đặt đồn lính, trích tinh binh cho Nha Kinh lý sai phái. Xét An Khê bấy giờ chỉ có Man người Thượng và một ít dân theo tả đạo (Thiên Chúa) đang xiêu tán ở nơi này (tr 169 Thực Lục tập VIII), cư dân chẳng có là bao, triều đình đưa tù phạm ở tỉnh khác lên đây, và cho trích tiền quyên được để thuê dân nghèo các nơi đến để khẩn ruộng. Đại Nam Thực Lục chép:
+ “Tháng 8 1882 Kinh lý sứ ở An Khê, tỉnh Bình Định là Nguyễn Trường xin trích tiền quyên thuê dân phụ vào việc khai khẩn ruộng hoang. Vua y cho”. (tr 380 Thực Lục tập VIII)
+ “Tháng Giêng 1883 Tha tù phạm quân lưu (97 tên) tỉnh Bình Thuận chia ra giao cho 2 nha Kinh lý ở Bình Định và Điển nông ở Khánh Hoà quản thúc, và xếp đặt chỗ ở để khai khẩn ruộng hoang”. (tr 389 Thực Lục tập VIII)
+ “Tháng 4 năm 1883 Xếp đặt dân nghèo tỉnh Quảng Ngãi đến tỉnh Bình Định (nha Kinh lý) và tỉnh Thuận – Khánh (nha Doanh điền) liệu cấp vốn công cho khai khẩn ruộng hoang cày cấy”. (tr 401 Thực Lục tập VIII)
An Khê có Nha Kinh lý điều hành, tình hình làng mạc được khởi sắc hơn, Đồng Khánh Dư Địa Chí biên soạn quãng 1886 – 1887 cho thấy cao nguyên An Khê bấy giờ có 3 thôn 7 ấp, lệ vào tổng Phú Phong của huyện Tuy Viễn. Đó là 3 thôn An Khê, An Khê Tây, Cửu An, 7 ấp là Tân Cư, Tân Khai, Tân Lai, Tân Lập, Tân Phong, Tân Tạo, Tân Tụ. Còn Đại Nam Thực Lục thì cho biết nhờ được cấp trâu cày, đồ làm ruộng, mộ dân các nơi đến cày cấy… Nha Kinh lý An Khê bấy giờ hộ khẩu hơn 800 người, ruộng đất hiện thành 900 mẫu. (tr 389 Thực Lục tập VIII)
Với những kết quả mà Nha Kinh lý đạt được, năm Đồng Khánh thứ 3 Nha Kinh lý An Khê được nâng lên làm huyện Bình Khê, đặt quan cai trị.
(Còn tiếp…) Trich từ fb/ QuangTrung BinhKhe
Bình luận: